Theo Y học cổ truyền, Thạch lựu bì vị chua chát, tính ôn; vào kinh đại trường; tác dụng sáp tràng chỉ tả, sát trùng nên được sử dụng để diệt trừ giun sán.
- Tìm hiểu phương pháp chữa bệnh viêm khớp từ Y sĩ YHCT Sài Gòn
- Y sĩ YHCT Sài Gòn chia sẻ vị thuốc đa năng Địa cốt bì
- Dược Sài Gòn chia sẻ những lợi ích tuyệt vời từ vỏ cam quýt

Hãy cùng các Y sĩ Y học cổ truyền Sài Gòn tại Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn tìm hiểu về
Thạch lựu bì trong Y học cổ truyền
Thạch lựu bì là vỏ quả lựu hay vỏ rễ cây thạch lựu (Punica granatum L.), thuộc họ lựu (Punicaceae). Theo các nghiên cứu hiện đại, loại cây này có tác dụng trị giun sán do các alcaloid gây độc với giun sán; kết hợp với tanin có tác dụng săn se niêm mạc ruột làm hạn chế hấp thu vào cơ thể và tăng nồng độ alcaloid trong lòng ruột.
Thạch lựu bì còn có tên gọi khác như Thạch lựu xác, Toan Thạch lựu bì hay Toan lựu bì; được trồng khắp nơi ở nước ta làm cảnh và lấy quả, trong đó Trung Quốc cũng là một trong những quốc gia trồng nhiều loại cây này.
Theo Bác sĩ Y học cổ truyền thành phố Hồ Chí Minh, Thạch lựu bì vị chua chát, tính ôn; vào kinh đại trường. Có tác dụng sáp tràng chỉ tả, sát trùng. Chữa chứng tả lỵ lâu ngày, thoát giang, trừ giun sán. Đây cũng là vị thuốc được nhắc nhiều trong các sách thuốc cổ như: Sách Dược tính bản thảo: vị chua không độc; Sách Trấn nam bản thảo: tính hàn vị chua sáp; Sách Bản thảo cương mục: chua, sáp ôn, không độc; Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập 2 kinh Đại tràng Thận; Sách Bản thảo tóat yếu: nhập thủ thái âm, túc thiếu âm kinh.
Một số Y văn cổ cũng đề cập đến tác dụng dược lý của Thạch lựu bì như: Sách Bản thảo thập di: ” trị hồi trùng ( lãi đũa) sắc uống”; Sách Trấn nam bản thảo: ” trị tiêu chảy lâu ngày, sao nướng với đường cát ăn. Trị lî có máu mủ, đại tràng chảy máu”; Sách Bản thảo cương mục: ” chỉ tả lî, hạ huyết, thóat giang, băng trung đới hạ”.
Liều dùng thích hợp khi dùng Thạch lựu bì là từ 6 – 20g. Dùng ngoài lấy lượng vừa đủ, tán bột hoặc nấu nước ngâm rửa. Vỏ rễ có thể dùng trị sán, tuy nhiên chúng dễ kích thích ruột và dạ dày nên khi dùng cần thận trọng.
Bài thuốc điều trị bệnh có Thạch lựu bì trong Y học cổ truyền
Các Y sĩ Y sĩ Y học cổ truyền Thành phố Hồ Chí Minh đã liệt kê các bài thuốc dân gian từ Thạch lựu bì, cụ thể như sau:
Bài thuốc trừ giun sán, giảm đau
Bài 1: Thuốc bột binh lang: binh lang 12g, vỏ quả lựu 20g. Tất cả đem sắc uống. Bài thuốc bột binh lang có tác dụng trong việc trị giun đũa, giun tóc.
Bài 2: Vỏ rễ lựu, hạt cau, đại hoàng, mỗi vị 4g. Sắc lấy 300ml. Tối hôm trước nhịn đói, sáng hôm sau chia thuốc uống làm 2 – 3 lần, nằm nghỉ, đợi khi nào buồn đi tiêu mới đi, nhúng mông vào chậu nước ấm cho sán ra hết. Trị sán.
Bài 3: Vỏ quả lựu, binh lang, quán chúng mỗi vị 12g; sử quân tử 20g. Tất cả đem sắc uống. Bài thuốc có tác dụng hiệu quả trong việc trị giun kim.

Bài thuốc chữa mẩn ngứa, nổi mề đay do nhiệt
Bài 1: Chuẩn bị vỏ quả lựu tươi, bèo cái, ké đầu ngựa, bồ công anh, hà thủ ô, thổ phục linh, mỗi vị 12g; thuyền thoái, cam thảo đất, mã đề, mỗi vị 8g. Sắc uống 2 lần trong ngày. Uống liền trong 5 – 7 ngày.
Bài thuốc có tác dụng hiệu quả trong việc cầm tiêu chảy. Trị tiêu chảy, đi lỵ lâu ngày, di tinh, đại tiện ra máu, băng lậu, đới hạ…
Bài 2: Sử dụng bài thuốc Thang hoàng liên gồm: vỏ quả lựu, đương quy, a giao mỗi vị 12g; hoàng bá, hoàng liên, sinh khương mỗi vị 6g; cam thảo 4g. Sắc uống. Trị lỵ kinh niên, phân có máu mũi.
Với mỗi trường hợp sẽ có những bài thuốc tương ứng, tuy nhiên người bệnh cần tuân thủ theo hướng dẫn của thầy thuốc Y học cổ truyền là những bác sĩ, y sĩ, lương y được đào tạo bài bản như Đại học, Cao đẳng, Trung cấp Y học cổ truyền. Đặc biệt theo lời khuyên từ Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn những người có thực tà hoặc lỵ mới mắc không nên dùng. Người yếu, trẻ nhỏ, phụ nữ có thai không dùng.