Việc chuyển dạ, sinh con luôn đặt các bà mẹ vào nguy cơ bị tai biến, nhiễm trùng có thể mất mạng, tuy nhiên mới đây một nghiên cứu cho thấy sử dụng Azithromycin trong giai đoạn chuyển dạ giúp bảo vệ mẹ và con khỏi nhiễm trùng
- ìm hiểu những điều cần biết về dị ứng thuốc từ Dược Sài Gòn
- Chuyên gia Dược Sài Gòn hướng dẫn sử dụng Bisoprolol an toàn hiệu quả
- Dược sĩ Cao đẳng Dược Sài Gòn hướng dẫn sử dụng Cotrimoxazol

Tùy vào cơ địa, thể trạng và sức khỏe của mỗi người mà có những người sinh con rất nhanh chóng và khỏe mạnh. Nhưng cũng có những người sinh con khó hơn và năm tai biến sản khoa phổ biến có thể đặt cả họ và em bé vào vòng nguy hiểm đó là: băng huyết sau sinh, vỡ tử cung, uốn ván dây rốn, tiền sản giật và nhiễm khuẩn sau sinh.
Một bài phân tích sau cuộc thử nghiệm lâm sàng được thực hiện ở Gambia cho thấy việc sử dụng một liều Azithromycin cho phụ nữ mang thai trong thời kỳ chuyển dạ giúp bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh khỏi bị nhiễm trùng trong 8 tuần. Gambia là một trong những nước có tỷ lệ tử vong mẹ cao nhất ở các nước đang phát triển và tử vong ở trẻ sơ sinh chiếm khoảng 40% tổng số ca tử vong trẻ dưới 5 tuổi.
Trong nghiên cứu thử nghiệm giả dược mù đôi này, họ đã chỉ ra rằng một liều Azithromycin 2g dùng đường uống cho phụ nữ trong quá trình chuyển dạ làm giảm tình trạng nhiễm trùng của mẹ và trẻ sơ sinh với Staphylococcus aureus, Streptococcus Pneumoniae và nhiễm Streptococcus nhóm B trong giai đoạn sơ sinh.
Mục đích của phân tích này là đánh giá kết quả sử dụng dự phòng Azithromycin với tình trạng nhiễm trùng sau sinh ở mẹ và trẻ sơ sinh đến 8 tuần sau sinh. Những người tham gia gồm 829 phụ nữ (414 người đã dùng Azithromycin và 415 người dùng giả dược) và 830 trẻ sơ sinh của các bà mẹ này.
Kết quả cho thấy nhiễm trùng mẹ ở nhóm dùng Azithromycin thấp hơn nhóm dùng giả dược (3,6% so với 9,2%; RR, 0,40; p = 0,002), tỷ lệ viêm tuyến vú (1,4% so với 5,1%; RR 0,29; = 0,005) và sốt (1,9% so với 5,8%; RR, 0,33; p = 0,006).
Tỷ lệ nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh của những bà mẹ đã từng sử dụng Azithromycin trong thời gian chuyển dạ cũng thấp hơn (18,1% so với 23,8%; RR, 0,76; p = 0,052), tỷ lệ nhiễm trùng da (3,1% so với 6,4%; RR 0,49 ; p = 0,034).
Nghiên cứu này đang ở giai đoạn sơ khởi và họ vẫn đang trong giai đoạn đầu để xác định tác động tiềm ẩn của can thiệp được đề xuất. Những phát hiện cần được tiếp tục nghiên cứu vì đã cho thấy khả năng làm giảm mạnh tình trạng nhiễm trùng (viêm vú ở phụ nữ và nhiễm trùng da ở trẻ sơ sinh) phổ biến ở phụ nữ và trẻ sơ sinh trong suốt 8 tuần đầu sau sinh.

Nhóm nghiên cứu sắp bắt đầu một thử nghiệm mới tại hai quốc gia ở Tây Phi là Gambia và Burkina Faso, nhằm mục đích đánh giá tác động của việc can thiệp vào những trường hợp bệnh nặng và tử vong. Nhóm nghiên cứu cũng lưu ý rằng can thiệp này không được thiết kế để thực hiện ở các nước phát triển. Cơ sở lý luận chung của nghiên cứu này là chọn lựa một can thiệp mới để giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong trong thời gian hậu sản phụ nữ và trẻ sơ sinh ở các nước có cơ sở hạ tầng và nguồn lực về sức khoẻ hạn chế. Azithromycin không đòi hỏi các điều kiện bảo quản đặc biệt như dây chuyền lạnh. Việc sử dụng thuốc này không cần thực hiện các xét nghiệm hay thăm khám tiếp theo.
Tuy nhiên, Azithromycin cũng có một số các tác dụng không mong muốn như sự đề kháng kháng sinh, tác dụng bất lợi của thuốc. Khi dùng thuốc trong dự phòng nhiễm trùng ở giai đoạn chuyển, mọi người cần cân nhắc giữa những lợi ích có thể thấy được trong nghiên cứu này với những tác hại tiềm ẩn đối với việc tiếp xúc với azithromycin. Do đó, các nhà khoa học cần thực hiện thêm nhiều nghiên cứu hơn trước khi việc triển khai sử dụng Azithromycin trong chuyển dạ trở nên phổ biến để nhằm tránh tình trạng lợi bất cập hại của azithromycin.
Hy vọng những thông tin tổng hợp trên đây từ các bác sĩ Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn đã phần nào giúp được phụ nữ mang thai hạn chế được nguy cơ nhiễm trùng khi chuyển dạ.