Bệnh chân voi hay còn được gọi là phù chân voi là biến chứng của nhiễm giun chỉ bạch huyết. Bệnh khiến các bộ phận này sưng to, biến dạng quá mức, gây ảnh hưởng lớn đến người bệnh
- Tìm hiểu biện pháp phòng ngừa đột quỵ cùng Điều dưỡng Sài Gòn
- Chuyên gia Điều dưỡng Sài Gòn chia sẽ về biện pháp điều trị đột quỵ
- Tìm hiểu về chứng bệnh Viêm bao hoạt dịch cùng Điều dưỡng Sài Gòn
Nguyên nhân gây bệnh chân voi
Theo bác sĩ Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn, nguyên nhân bệnh chân voi là do giun chỉ. Trên thế giới phát hiện 3 loài giun chỉ gây bệnh cho người là Wuchereria bancrofti (W. bancrofti), Brugia malayi (B. malayi) và Brugia timori (B.timori). Ở nước ta, chỉ phát hiện được 2 loài là W. bancrofti và B. malayi (B.malayi).
Giun đực và cái thường cuộn vào nhau do đó gây cản trở mạch bạch huyết. Ấu trùng giun chỉ và giun chỉ trưởng thành đều không tồn tại ở môi trường tự nhiên, chỉ tồn tại trong cơ thể người và trong cơ thể muỗi truyền bệnh.
Đối tượng nguy cơ: Khí hậu nóng ẩm, vệ sinh môi trường kém, nơi ở ẩm thấp: là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của muỗi do đó những vùng có khí hậu nóng ẩm thì nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Ngủ không mắc màn tạo điều kiện cho muỗi truyền ấu trùng giun chỉ chỉ vào cơ thể.
Đường lây truyền: Bệnh chân voi không lây trực tiếp từ người bị bệnh sang người lành mà phải qua trung gian truyền bệnh là muỗi. Nếu muỗi đốt người bệnh và bị nhiễm ấu trùng sau đó đốt người khác thì có thể lây bệnh sang người khác.
Triệu chứng bệnh chân voi
Bệnh chân voi là biểu hiện rõ nhất trong giai đoạn biến chứng của nhiễm giun chỉ. Triệu chứng của bệnh chân voi phụ thuộc vào từng giai đoạn như sau:
- Giai đoạn ủ bệnh: là thời gian được tính từ khi ấu trùng giun được đưa vào cơ thể đến khi phát triển thành giun trưởng thành.
- Tiếp theo là giai đoạn khởi bệnh: biểu hiện các triệu chứng không rõ rành tùy thuộc vào từng trường hợp và dễ nhầm với các bệnh khác. Bệnh nhân thường xuất hiện sốt, viêm mạch ở các chân nách hoặc vùng bẹn kèm theo nổi hạch.
- Cuối cùng là giai đoạn toàn phát: giai đoạn này hệ thống mạch bạch huyết đã bị tổn thương dẫn đến các biến chứng.
Biểu hiện của giai đoạn toàn phát/biến chứng:
- Xuất hiện phù chân voi. Bệnh nhân sẽ có các đợt phù xuất hiện liên tục, da dần dần trở nên dày, phù dần từ dưới lên trên.
- Viêm bộ phận sinh dục: gồm viêm thừng tinh, viêm tinh hoàn, tràn dịch màng tinh. Các trường hợp nặng, bộ phận sinh dục có thể phù to như bìu voi, vú voi nhưng không đỏ và hoàn toàn không đau (nên được gọi là phù voi).
- Tiểu ra dưỡng chấp: nước tiểu trắng đục như nước vo gạo, nhưng để lâu không lắng, đôi khi có thể có lẫn máu. Một số trường hợp có quá nhiều dưỡng chấp trong nước tiểu, khi đó để nước tiểu lâu có thể bị đông lại.
Chẩn đoán và điều trị bệnh chân voi
Bệnh chân voi có thể dễ dàng được nhận ra trên lâm sàng khi đã có triệu chứng chân phù to, nhưng đối với các trường hợp khác có thể thực hiện một số Kỹ thuật Xét nghiệm Y học để chẩn đoán sớm.
- Xét nghiệm máu: có ấu trùng giun chỉ.
- Xét nghiệm dịch dưỡng chấp: có thể phát hiện ấu trùng giun chỉ.
- Xét nghiệm miễn dịch hấp phụ có gắn men ELISA.
- Sinh thiết hạch bạch huyết làm giải phẫu bệnh.
- Siêu âm, chụp mạch bạch huyết: phát hiện các tổn thương của hệ bạch huyết.
Liệu pháp phức hợp điều trị suy giảm (Complex decongestive therapy-CDT)
CDT vẫn được coi là tiêu chuẩn quốc tế về chăm sóc điều trị phù bạch huyết nói chung hay bệnh chân voi nói riêng, bao gồm hai giai đoạn: tấn công và duy trì.
Mục tiêu của CDT là để tăng thoát bạch huyết; để giảm sưng, khó chịu, xơ hóa và nguy cơ viêm mô tế bào; và để cải thiện tình trạng chức năng và chất lượng cuộc sống. Giai đoạn tấn công gồm sử dụng một kỹ thuật xoa bóp được gọi là thoát bạch huyết thủ công (MLD), băng bó ngắn, các bài tập để tạo và tăng cường cơ chế bơm bên trong, chăm sóc da và giáo dục trong việc tự quản lý.
Giai đoạn duy trì thường liên quan đến việc sử dụng (các) quần áo nén vào ban ngày, với các bệnh nhân ở giai đoạn nặng hơn đòi hỏi phải nén về đêm bằng cách băng bó hoặc thay thế bằng thiết bị nén và thiết bị nén tùy chỉnh. MLD và tập thể dục tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong điều trị duy trì phù bạch huyết.
Phương pháp phẫu thuật
Mặc dù phẫu thuật không phải là thuốc chữa bệnh, đôi khi các phẫu thuật này được xem xét khi CDT và các phương pháp khác không thể làm giảm triệu chứng. Phẫu thuật cắt bỏ hoặc gỡ rối và hút mỡ để giúp giảm các mô dư thừa, và thường được dành riêng cho những bệnh nhân có khả năng di chuyển và chất lượng cuộc sống bị giảm nghiêm trọng do bệnh.