Vấn đề về học phí được khá nhiều sinh viên quan tâm khi bước chân vào giảng được đại học. Đến thời điểm hiện tại, trên cả nước chỉ còn 23 trường công lập tự chủ tài chính 100%.
- Cơ hội nào để thí sinh giành “vé vớt” vào đại học?
- Giải đáp tất cả thắc mắc về xét tuyển nguyện vọng bổ sung năm 2018
- Hồ sơ tuyển sinh Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn gồm những gì?
Chỉ còn 23 trường công lập tự chủ tài chính 100%
Theo Luật giáo dục đại học, tự chủ đại học rất toàn diện, bao gồm tự chủ về tổ chức bộ máy – nhân sự, tài sản – tài chính và chuyên môn học thuật. Các cơ sở giáo dục đại học đã chủ động hơn trong việc này và quyền tự chủ đã mang đến những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và tổ chức thực hiện.
Tuy nhiên, việc thực hiện quyền tự chủ đại học vẫn còn một số hạn chế, trong đó có sự chưa thống nhất trong quan niệm. Về phía cơ quan nhà nước, tự chủ đại học hiện được tiếp cận từ góc độ tài chính, chủ yếu là mức độ tự bảo đảm kinh phí hoạt động mà chưa chú trọng tới tổ chức, nhân sự, quản trị, tiềm lực và kinh nghiệm về hoạt động đào tạo, khoa học, công nghệ cũng như các điều kiện khác.
Trong khi đó, các trường cho rằng tự chủ là bản chất, là thuộc tính và là quyền đương nhiên được hưởng mà không thấy rằng việc thực hiện tự chủ phụ thuộc vào năng lực thực hiện của đơn vị đáp ứng các tiêu chí định trước về chi phí và kết quả hoạt động.
Nhìn chung, câu chuyện tự chủ đang đặt nặng tự chủ về tài chính
Theo Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn cập nhật được, 23 cơ sở giáo dục đại học công lập được Chính phủ cho thí điểm tự chủ đều là những trường có thể tự lo 100% kinh phí, từ chi thường xuyên đến đầu tư phát triển. Ông Phạm Tất Thắng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng vừa giám sát việc thực hiện Luật giáo dục đại học ở 16 cơ sở giáo dục đại học tại 7 tỉnh, thành phố, trong đó có giám sát về việc thực hiện quyền tự chủ cho rằng, việc các trường lo được toàn bộ kinh phí mới được thí điểm giao quyền tự chủ cao là chưa hoàn toàn phù hợp.
Thực tế cho thấy những trường tự lo được kinh phí hiện nay chủ yếu là giảng dạy các ngành kinh tế, xã hội, nhân văn, kỹ thuật, công nghệ. Hầu hết trường trong số đó không phải đầu tư máy móc, phòng thí nghiệm nhiều và có nhiều ngành đào tạo có nhu cầu xã hội cao.
Ngược lại, nhu cầu đối với ngành thuộc trường khối sư phạm hay khoa học cơ bản không cao, xã hội không thực sự mặn mà trong khi rõ ràng nhà nước, nền kinh tế xã hội lại cần. Vì vậy nếu đặt nặng vấn đề kinh phí, những trường này khó có thể tự chủ cao được.
Tuy nhiên, các trường cũng cần thoát khỏi tư duy bao cấp, trông chờ quá nhiều vào ngân sách nhà nước để hướng tới sự phát triển, tránh làm mất đi tính năng động, chủ động, tự chủ. Hiện tại, ngoài 23 trường tự chủ hoàn toàn về tài chính, nhà nước, các bộ ngành, địa phương vẫn cấp kinh phí cho các trường công lập theo số lượng sinh viên.
Nhiều ý kiến cho rằng cơ chế tự chủ đại học làm số lượng trường gia tăng mạnh. Để đảm bảo tồn tại, các trường tuyển sinh bằng mọi giá dẫn đến chất lượng đầu vào thấp.
Về vấn đề này, ông Thắng cho rằng có thời điểm chúng ta tính việc phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đại học theo cách tính số sinh viên trên 10.000 dân. Theo chỉ tiêu đó, số sinh viên và số trường của Việt Nam chưa phải quá nhiều so với khu vực.
Tuy nhiên so với thực tế, có thể thấy dường như số lượng gần 250 đại học của Việt Nam là nhiều dẫn đến hệ lụy nguồn tuyển đầu vào bị hạn chế. Rõ ràng để đảm bảo điều kiện tồn tại, một số trường dựa vào điêm của kỳ thi THPT Quốc gia đã phải lấy điểm tuyển sinh thấp khiến chất lượng thí sinh không cao, làm ảnh hưởng đến chất lượng đầu ra.
Giáo dục đại học khác các bậc khác là phải sáng tạo ra tri thức mới cho xã hội thông qua con đường nghiên cứu khoa học. Nếu say sưa vào việc có số lượng sinh viên tối đa để thu được học phí nhiều, các trường sẽ bị chi phối về thời gian, nguồn lực; từ đó bị hạn chế nghiên cứu khoa học vì nghiên cứu cần sự đầu tư rất lớn về tài chính, con người và thời gian.